BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 - 2015 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG,
NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016 - 2020
(Dự thảo)
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 - 2015
Trước
Đại hội Đảng lần thứ XI, hầu hết các nước trên thế giới thực hiện chính
sách hỗ trợ tăng trưởng nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu. Nhiều dự báo cho rằng khủng hoảng có thể sớm kết thúc và triển vọng kinh tế thế giới sẽ phục hồi sau năm 2010.
Trong nước, chúng ta thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó có chính sách kích cầu, hỗ trợ tăng
trưởng. Giai đoạn 2006 - 2010 tăng trưởng kinh tế đạt 7%/năm. Nước ta đã
ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào Nhóm các nước đang phát
triển có thu nhập trung bình và hoàn thành nhiều Mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ. Trên cơ sở kết quả đạt được của giai đoạn 2006 - 2010 và
do chưa lường hết được những khó khăn, thách thức nên nhiều chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội đề ra cho 5 năm 2011 - 2015 là khá cao.
Sau Đại hội Đảng, tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp. Kinh tế phục hồi chậm hơn dự báo[1] .
Nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại và sản xuất. Khủng hoảng nợ
công diễn ra trầm trọng hơn ở nhiều quốc gia. Các nước lớn cạnh tranh
quyết liệt giành ảnh hưởng trong khu vực. Đối với nước ta, tác động của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho mặt trái của
chính sách kích cầu và những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ
nặng nề hơn. Lạm phát tăng cao, kinh tế vĩ mô không ổn định, sản xuất
kinh doanh và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, thiên
tai, dịch bệnh gây thiệt hại lớn và yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội, tăng
cường quốc phòng, an ninh ngày càng cao.
Trước
diễn biến mới của tình hình, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã quyết
định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tập
trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh
xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý
gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế
và đổi mới mô hình tăng trưởng; bảo đảm quốc phòng - an ninh và ổn định
chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả
hội nhập quốc tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những
năm cuối của kế hoạch 5 năm.
Tình
hình phức tạp, căng thẳng ở Biển Đông đe doạ nghiêm trọng hoà bình, ổn
định và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chúng ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền và thực hiện các giải
pháp phù hợp để giữ vững hoà bình và quan hệ hữu nghị với các nước. Đồng
thời nỗ lực phấn đấu để đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
I- CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1- Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định
Thực
hiện đồng bộ các giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô;
điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và phối hợp tốt hơn
với chính sách tài khoá. Đã cơ bản bảo đảm được các cân đối lớn của nền
kinh tế. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống
còn khoảng 5% vào năm 2015. Mặt bằng lãi suất giảm, phù hợp với diễn
biến lạm phát. Tỉ giá, thị trường ngoại hối ổn định. Khắc phục được cơ
bản tình trạng đô-la hoá, vàng hoá. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng
lên. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khá cao, đạt bình quân khoảng
18%/năm; tỉ trọng sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu tăng
mạnh. Cán cân thương mại được cải thiện; cán cân thanh toán quốc tế
thặng dư khá cao. Dự trữ ngoại hối tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến
nay.
Quản
lý ngân sách nhà nước được tăng cường. Đẩy mạnh chống thất thu, tiết
kiệm chi, ưu tiên chi cho bảo đảm an sinh xã hội và phát triển con
người. Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, tập trung vốn hoàn
thành các công trình quan trọng, cấp bách và đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an
toàn theo quy định của pháp luật[2] .
Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, bảo đảm cân đối cung - cầu các
mặt hàng thiết yếu và đẩy mạnh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương
mại.
2-
Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục
hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên
Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt 5,82%/năm[3] . Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.200 USD[4] .
Sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2014 - 2015 tăng trên 7,5%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế
tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng mạnh. Khu vực nông nghiệp phát triển
ổn định, giá trị sản xuất tăng bình quân 3,9%/năm; độ che phủ rừng đạt
khoảng 42% vào năm 2015. Giá trị gia tăng khu vực dịch vụ tăng khá, đạt
bình quân 6,5%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng tăng bình quân 14,7%/năm (loại trừ yếu tố giá tăng khoảng 6,5%).
Tổng doanh thu từ khách du lịch tăng bình quân 21%/năm; khách quốc tế
đạt khoảng 8,7 triệu lượt vào năm 2015.
Chất
lượng tăng trưởng nhiều mặt được nâng lên, đóng góp của khoa học, công
nghệ tăng; năng suất lao động tăng bình quân 3,8%/năm; vốn đầu tư được
sử dụng hiệu quả hơn[5] .
3- Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực
3.1- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh có bước được cải thiện
Hệ
thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Đã ban hành và triển khai
thực hiện Hiến pháp năm 2013. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có hiệu quả
và tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Các yếu tố thị trường và các
loại thị trường được hình thành và vận hành khá đồng bộ, gắn kết hiệu
quả hơn với thị trường ngoài nước. Giá hàng hoá, dịch vụ đã cơ bản theo
nguyên tắc thị trường. Thực hiện giá thị trường theo lộ trình đối với
xăng dầu, than, điện, nước, dịch vụ giáo dục, y tế... gắn với hỗ trợ các
đối tượng chính sách, hộ nghèo, vùng khó khăn.
Môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, cạnh tranh minh bạch, bình
đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, góp
phần huy động, phân bổ và sử dụng ngày càng hiệu quả các nguồn lực
trong, ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý nhà nước được tăng cường. Năng lực cạnh tranh có
bước được nâng lên. Vai trò kinh tế ngoài nhà nước (không kể đầu tư
nước ngoài) ngày càng được phát huy, đóng góp 39% tổng đầu tư toàn xã
hội và khoảng 50% GDP.
3.2- Phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ đạt được những kết quả tích cực
Hệ thống thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ tiếp tục được hoàn thiện.
Mạng
lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng
lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Nội dung, phương pháp giáo dục,
đào tạo, thi cử và kiểm định chất lượng có đổi mới. Cơ cấu đào tạo hợp
lý hơn. Tập trung đầu tư cơ sở vật chất và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong giáo dục, đào tạo. Chú trọng giáo dục, đào tạo vùng khó
khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý có
bước phát triển. Xã hội hoá giáo dục, đào tạo được đẩy mạnh. Tỉ lệ nhập
học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đạt mức cao. Tỉ lệ lao động qua
đào tạo đạt khoảng 50% vào năm 2015. Dạy nghề cho lao động nông thôn
được quan tâm.
Tiềm lực khoa học, công nghệ được tăng cường. Đầu tư từ ngân sách nhà
nước cho khoa học, công nghệ tăng bình quân 16,5%/năm, đạt khoảng 2%
tổng chi ngân sách nhà nước. Đầu tư xã hội cho khoa học, công nghệ tăng
nhanh, ước đạt 1,3% GDP vào năm 2015. Khoa học cơ bản đã có bước phát
triển. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là
trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông tin truyền
thông... Các quỹ về khoa học và công nghệ được thành lập, bước đầu đi
vào hoạt động và phát huy hiệu quả. Phát triển thị trường khoa học, công
nghệ, tăng cường hoạt động kết nối cung - cầu, giá trị giao dịch công
nghệ tăng bình quân 13,5%/năm. Hình thành một số mô hình gắn kết hiệu
quả giữa viện, trường với doanh nghiệp trong hoạt động khoa học, công
nghệ.
3.3- Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng
Đã
rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với tầm nhìn tổng
thể, dài hạn. Đa dạng hoá phương thức và nguồn vốn đầu tư. Hệ thống kết
cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây dựng; nhiều công trình quan
trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước và
đã góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc
tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Hạ tầng giao thông cả đường bộ, đường sắt, đường hàng không, hàng hải, đường thuỷ được quan tâm đầu tư, bảo đảm tốt hơn sự kết nối trên phạm vi cả nước và giao thương quốc tế[6] . Hạ tầng năng lượng cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia[7] .
Hạ tầng thuỷ lợi được đầu tư, nâng cấp và khai thác hiệu quả hơn. Hạ
tầng đô thị, nhất là ở các thành phố lớn có bước được cải thiện[8] .
Hạ tầng thương mại với hệ thống siêu thị, chợ phát triển khá nhanh. Hạ
tầng thông tin truyền thông phát triển mạnh, đã phóng thành công và đưa
vào sử dụng Vệ tinh Vinasat-2. Hạ tầng giáo dục, đào tạo, khoa học, công
nghệ, y tế, văn hoá, thể thao, du lịch... được quan tâm đầu tư.
4- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu
Đã
triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu,
chú trọng chiều sâu, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch tích cực, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng,
đạt trên 83% vào năm 2015. Tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao
động xã hội giảm, còn khoảng 46,5%. Tập trung thực hiện tái cơ cấu về
đầu tư công, hệ thống các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước và tái
cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Triển khai đề
án tái cơ cấu ngành công thương, xây dựng.
4.1- Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công
Thực
hiện Luật Đầu tư công, đổi mới cơ chế phân bổ vốn theo kế hoạch trung
hạn. Tăng cường quản lý, chủ động rà soát, tập trung vốn đầu tư cho các công trình, dự án quan trọng, cấp thiết và vốn đối ứng các dự án ODA,
khắc phục một bước tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả.
Tập trung xử lý nợ xây dựng cơ bản. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý
đầu tư, nâng cao hơn trách nhiệm của địa phương và chủ đầu tư. Hiệu quả đầu tư có bước được cải thiện; tỉ lệ tổng đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm mạnh (còn 31% GDP) nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút vốn đầu tư ngoài nhà nước. Tỉ trọng đầu tư công giảm dần, đầu tư ngoài nhà nước tăng lên. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài phục hồi, vốn đăng ký giai đoạn 2011 - 2015 đạt trên 88
tỉ USD, thực hiện đạt 58,5 tỉ USD. Vốn ODA ký kết khoảng 30 tỉ USD,
giải ngân khoảng 23 tỉ USD, đóng góp quan trọng vào phát triển kết cấu
hạ tầng. Đầu tư tư nhân trong nước tiếp tục tăng, chiếm khoảng 42% tổng
đầu tư toàn xã hội.
4.2- Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
Khẩn
trương cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; giám sát chặt chẽ và sắp xếp
lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, có nguy cơ đổ vỡ; tăng
cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống. Các tổ
chức tín dụng từng bước áp dụng chuẩn mực quản trị theo thông lệ quốc
tế, hiệu quả hoạt động được nâng lên, chất lượng tín dụng được cải
thiện. Triển khai thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu; phát huy vai trò
của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC). Tỉ lệ nợ
xấu giảm dần, đến cuối năm 2015 còn khoảng 3%.
Các
công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm từng bước được cơ cấu lại;
công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; thông tin ngày càng công
khai, minh bạch; hiệu quả hoạt động được cải thiện. Quy mô thị trường
ngày càng tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP, thị
trường trái phiếu đạt 23% GDP vào cuối năm 2015.
4.3- Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty
Cơ
cấu lại doanh nghiệp nhà nước đạt được những kết quả tích cực. Doanh
nghiệp nhà nước cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Tập trung
hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hoá
và dịch vụ công thiết yếu. Quản lý nhà nước được tăng cường. Hệ thống
pháp luật về doanh nghiệp nhà nước được hoàn thiện. Xác định rõ quyền,
trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp và công khai, minh
bạch hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá và thoái vốn đầu
tư ngoài ngành theo cơ chế thị trường được đẩy mạnh. Năng lực quản trị,
tiềm lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước được nâng lên; vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển; giá trị
tài sản tăng; tỉ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trong giới hạn quy định. Các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt
hơn.
4.4- Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
Cơ
cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích
cực. Tập trung tổ chức lại sản xuất, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi
theo nhu cầu thị trường và xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá quy mô
lớn, liên kết sản xuất với chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Tăng
cường ứng dụng khoa học, công nghệ. Sản lượng lương thực tăng ổn định,
sản lượng lúa năm 2015 đạt trên 45 triệu tấn. Phát triển mạnh khai thác,
nuôi trồng, chế biến thuỷ sản với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Công
tác bảo vệ và phát triển rừng được chú trọng. Một số mặt hàng nông sản
xuất khẩu đạt thứ hạng cao trên thế giới như gạo, cà phê, cao su, hồ
tiêu, hạt điều, cá tra, tôm, sản phẩm gỗ chế biến...
Chương
trình xây dựng nông thôn mới được cả nước đồng tình, ủng hộ. Đã rà
soát, điều chỉnh các chính sách, tiêu chí phù hợp hơn với đặc thù từng
vùng, thu hút được nhiều nguồn lực và sự tham gia đông đảo của người
dân. Đến hết năm 2015 có khoảng 1.800 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm
20% tổng số xã.
4.5- Cơ cấu lại công nghiệp, dịch vụ và điều chỉnh quy hoạch phát triển vùng
Cơ
cấu công nghiệp chuyển dịch tích cực; tỉ trọng công nghiệp khai khoáng
giảm; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng, đạt 60% vào năm 2015.
Tập trung cơ cấu lại ngành, lĩnh vực và sản phẩm theo hướng nâng cao
giá trị quốc gia, giá trị gia tăng, chất lượng và sức cạnh tranh của sản
phẩm. Tích cực mở rộng thị trường ở các nước, các khu vực, không phụ
thuộc quá lớn vào một thị trường. Từng bước tham gia vào mạng sản xuất
và chuỗi giá trị toàn cầu. Năng lực và trình độ công nghệ ngành xây dựng
được nâng lên.
Đóng
góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; tỉ trọng dịch vụ
trong GDP đạt khoảng 44% vào năm 2015. Đã tập trung phát triển các ngành
dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như
công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính,
ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch
vụ phát triển mạnh trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo
hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và
phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là tại các vùng du lịch trọng
điểm.
Quy
hoạch phát triển ngành, vùng, sản phẩm được rà soát, điều chỉnh phù hợp
hơn với kinh tế thị trường. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch 6 vùng kinh
tế - xã hội, 4 vùng kinh tế trọng điểm. Hỗ trợ phát triển vùng khó khăn,
nhất là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía Tây các tỉnh miền
Trung. Phát triển hạ tầng và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế ven
biển, khu kinh tế cửa khẩu.
Tập trung thực hiện Chiến lược Biển. Đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là khai thác dầu khí, vận tải biển, cảng biển, đóng và sửa chữa
tàu biển, du lịch biển, nuôi trồng thuỷ sản; phát triển dịch vụ hậu cần
nghề cá và đẩy mạnh khai thác xa bờ. Gắn phát triển kinh tế biển với
bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
5- Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện
Phát
triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết
quả tích cực. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đã hoàn thành trước thời hạn
nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
Trong
bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, đã tăng thêm ngân sách nhà nước và
huy động các nguồn lực để thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội, ưu
tiên vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai và đồng bào dân tộc thiểu số.
Mở
rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều
chính sách đối với người có công, giảm nghèo, trợ giúp xã hội, tạo việc
làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh
viên nghèo. Nhìn chung, gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức trung bình trên địa bàn nơi cư trú. Thị trường lao động có bước
phát triển, trong 5 năm đã tạo việc làm cho khoảng 7,8 triệu người,
trong đó đi lao động ở nước ngoài khoảng 450 nghìn người. Tỉ lệ hộ nghèo
giảm bình quân khoảng 2%/năm, riêng các huyện nghèo giảm trên 4%/năm.
Tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tăng[9] .
Công
tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng. Tuổi thọ trung
bình tăng, đạt 73,5 tuổi vào năm 2015. Làm tốt công tác y tế dự phòng,
không để dịch bệnh lớn xảy ra. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên.
Đã tích cực triển khai nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện và đạt
kết quả bước đầu. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống các bệnh viện tuyến
huyện, tuyến tỉnh và tuyến cuối. Đội ngũ cán bộ y tế phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao y đức và
đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Các
cơ sở y tế tư nhân, y học cổ truyền và công nghiệp dược được khuyến
khích phát triển. Tăng cường quản lý chất lượng và giá thuốc chữa bệnh.
Chú trọng quản lý vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Công
tác chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em; công tác gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của
phụ nữ đã đạt kết quả tích cực. Các giá trị văn hoá dân tộc, di tích
lịch sử được quan tâm bảo tồn, phát huy. Nhiều di sản văn hoá vật thể,
phi vật thể được công nhận là di sản văn hoá quốc gia và thế giới. Sản
phẩm văn hoá, văn học - nghệ thuật ngày càng phong phú. Các phong trào
toàn dân xây dựng đời sống văn hoá, thể dục, thể thao được đẩy mạnh.
Chính
sách dân tộc được quan tâm; tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm.
Công tác dân vận được chú trọng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể nhân dân được củng cố, phát huy. Các cơ quan báo chí, xuất
bản làm tốt hơn nhiệm vụ thông tin tuyên truyền.
6- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường
Hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục được hoàn thiện. Công
tác kiểm tra, thanh tra việc thực thi và xử lý vi phạm được chú trọng.
Việc
quản lý, sử dụng đất đai, nguồn nước, khoáng sản chặt chẽ và hiệu quả
hơn. Công tác điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, định giá
tài nguyên có bước tiến bộ; khai thác, sử dụng phù hợp hơn theo cơ chế
thị trường và được giám sát chặt chẽ hơn. Quan tâm khai thác và sử dụng
hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo và vật liệu thay thế, thân thiện
với môi trường.
Các
biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và xử lý cơ sở gây ô nhiễm
nghiêm trọng được tích cực thực hiện. Tỉ lệ thu gom, xử lý chất thải
nguy hại đạt khoảng 75%; chất thải rắn y tế đạt 80%; tỉ lệ cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 90% vào năm 2015. Quan tâm
bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển rừng; tỉ lệ
che phủ rừng tăng, đạt khoảng 42% vào năm 2015.
Phòng,
chống và giảm nhẹ thiên tai được chú trọng, đạt nhiều kết quả. Năng lực
cảnh báo, dự báo thiên tai được tăng cường, chất lượng có bước được
nâng lên. Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng, chống
thiên tai được triển khai, tranh thủ được sự hợp tác, hỗ trợ của nhiều
đối tác.
7-
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính
đạt những kết quả tích cực; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
được chú trọng
Cải
cách hành chính được đẩy mạnh. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách
tiếp tục được hoàn thiện. Chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có
bước được nâng lên. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
và trợ giúp pháp lý cho người dân được chú trọng. Hiệu quả thực thi pháp
luật được nâng lên.
Kiện
toàn tổ chức bộ máy, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ,
công chức. Tập trung cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ
thông tin, tạo thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người
dân và doanh nghiệp. Thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình. Tiếp tục hoàn thiện phương thức hoạt động và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ
quan hành chính nhà nước. Chế tài xử lý vi phạm được hoàn thiện hơn.
Thể
chế, tổ chức bộ máy phòng, chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục được
hoàn thiện. Tập trung chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, xử lý
nghiêm và công khai kết quả xử lý các vụ việc tham nhũng. Các vụ án tham
nhũng được chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của
pháp luật. Nhiều giải pháp tiết kiệm, chống lãng phí được triển khai
thực hiện. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Hạn chế phát sinh mới các khiếu nại vượt cấp và tập trung
xử lý nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài.
8- Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững
Tiềm
lực quốc phòng, an ninh được tăng lên. Kiên quyết đấu tranh bằng các
giải pháp phù hợp để bảo vệ chủ quyền quốc gia và giữ vững môi trường
hoà bình, ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội. Thế trận quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố và gắn kết chặt chẽ hơn. Sức
mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân, Công
an nhân dân được nâng lên. Kết hợp tốt hơn giữa phát triển kinh tế với
bảo đảm quốc phòng, an ninh. An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội được bảo đảm. Công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm an toàn giao
thông[10] , phòng, chống cháy nổ và an toàn lao động được tập trung chỉ đạo, đạt được những kết quả tích cực.
9- Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực
Các
hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả, góp
phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của
cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Kiên định trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của đất
nước. Quản lý và xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác phát
triển với các nước láng giềng. Làm tốt công tác bảo hộ công dân.
Tăng
cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác; nâng cấp quan
hệ song phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược và đối tác
hợp tác toàn diện; đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu,
thực chất và hiệu quả hơn. Đã chủ động tham gia tích cực, có trách
nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Liên hợp quốc. Kiên trì cùng ASEAN thúc
đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông
(COC). Tích cực triển khai các hiệp định, thoả thuận thương mại đã có
và đàm phán, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở
rộng, đa dạng hoá thị trường, thúc đẩy phát triển và nâng cao tính tự
chủ của nền kinh tế. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên.
II- CÁC HẠN CHẾ, YẾU KÉM
1- Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc
Việc
kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực
sự bền vững. Cân đối ngân sách nhà nước còn khó khăn; cơ cấu thu, chi
ngân sách chưa phù hợp, chi thường xuyên tăng nhanh; bội chi ngân sách
còn cao, chưa đạt mục tiêu giảm xuống còn 4,5% GDP. Tuy vẫn bảo đảm
trong giới hạn an toàn theo quy định nhưng nợ công tăng nhanh, áp lực
trả nợ lớn; sử dụng vốn vay ở một số dự án kém hiệu quả. Đóng góp của
khu vực kinh tế trong nước vào tăng trưởng xuất khẩu thấp[11] .
Chất lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu còn gặp nhiều khó khăn. Thị
trường vốn, chứng khoán, bất động sản phát triển chưa đồng bộ, phục hồi
chậm và còn tiềm ẩn rủi ro.
2- Kinh tế phục hồi còn chậm, tăng trưởng chưa đạt chỉ tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp
Tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,82%/năm, thấp hơn 5 năm trước và chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực
còn lớn. Sản xuất nông nghiệp hiệu quả chưa cao; công nghiệp và dịch vụ
tăng thấp hơn giai đoạn trước. Tổng cầu tăng chậm, sản xuất kinh doanh
và tiêu thụ sản phẩm còn nhiều khó khăn. Doanh nghiệp giải thể, ngừng
hoạt động còn lớn; nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng. Số
lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế tăng chậm, nhiều doanh nghiệp hiệu
quả hoạt động chưa cao. Doanh nghiệp quy mô lớn còn ít. Chưa huy động
được cao nhất các nguồn lực của khu vực tư nhân vào đầu tư phát triển.
Việc sử dụng tài nguyên còn lãng phí, kém hiệu quả.
Chất
lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp, cải thiện còn chậm; công nghệ
sản xuất phần lớn còn lạc hậu. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp
(TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế, hệ số sử dụng vốn (ICOR) còn cao.
Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể
chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.
3-
Thực hiện các đột phá chiến lược và tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp
ứng yêu cầu
3.1- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, chưa tạo được đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Thể
chế kinh tế thị trường chưa thật đồng bộ, thông suốt; chưa thực sự là
động lực tạo đột phá để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực cho đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi
trường kinh doanh. Nhiều quy định trong hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách và quản lý điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh
tế thị trường, nhất là trong phân bổ nguồn lực, quản lý giá hàng hoá,
dịch vụ công thiết yếu và chưa bảo đảm cạnh tranh bình đẳng. Các loại
thị trường vận hành còn nhiều vướng mắc và hiệu quả chưa cao.
Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế. Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế
để bảo đảm cho doanh nghiệp, người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh
bình đẳng trong kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế.
3.2- Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học, công nghệ còn chậm
Chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải thiện còn chậm; thiếu lao động chất lượng cao[12] .
Hệ thống giáo dục còn thiếu tính liên thông, chưa thật hợp lý và thiếu
đồng bộ. Công tác phân luồng và hướng nghiệp còn hạn chế. Tình trạng mất
cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục còn chậm. Cơ chế,
chính sách có mặt chưa phù hợp; xã hội hoá còn chậm và gặp nhiều khó
khăn, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước cho phát triển
giáo dục, đào tạo. Cơ sở vật chất vẫn còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu
cầu.
Khoa
học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao năng suất
lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Chưa có giải pháp đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp và thu hút đầu tư
tư nhân cho nghiên cứu, đổi mới và ứng dụng khoa học, công nghệ. Việc
xã hội hoá các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập còn chậm.
Tiềm lực khoa học, công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Hiệu quả sử dụng các
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu
công nghệ cao còn thấp. Thị trường khoa học, công nghệ phát triển còn
chậm. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm được đổi mới, nhất là về
tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài.
Việc sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học, công nghệ còn dàn trải,
hiệu quả chưa cao. Năng lực đội ngũ khoa học, công nghệ còn hạn chế,
thiếu các nhà khoa học đầu ngành. Số lượng sáng chế, bài báo công bố
quốc tế còn ít.
3.3- Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển
Hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt hạn chế, chưa đồng
bộ, hiệu quả kết nối và chất lượng chưa cao. Phát triển đường cao tốc
và đầu tư nâng cấp một số tuyến quốc lộ quan trọng còn chậm; mạng lưới
đường sắt khổ hẹp, lạc hậu; một số cảng biển, sân bay đã quá tải. Chất
lượng và hiệu quả ngành điện còn thấp. Nhiều hệ thống thuỷ lợi chưa đồng
bộ, xuống cấp nghiêm trọng. Chất lượng hạ tầng công nghệ thông tin chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển. Công tác đảm bảo an ninh, an toàn mạng còn
nhiều khó khăn. Hạ tầng đô thị chưa đồng bộ, kém chất lượng và quá tải.
Hệ thống cấp, thoát nước còn bất cập; tình trạng ngập úng tại các thành
phố lớn chậm được xử lý. Công nghệ xử lý chất thải rắn còn lạc hậu. Chưa
có đột phá trong cơ chế, chính sách thu hút nguồn lực ngoài nhà nước
tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng.
Nhiều tiêu chí để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt như GDP bình quân đầu người,
tỉ trọng công nghiệp chế tạo và tỉ trọng nông nghiệp trong GDP, tỉ
trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội, tỉ lệ đô thị hoá,
điện
sản xuất bình quân đầu người, chỉ số phát triển con người, chỉ số bất
bình đẳng thu nhập, tỉ lệ lao động qua đào tạo, tỉ lệ dân số sử dụng
nước sạch[13] .
4- Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm
Mô
hình tăng trưởng còn chưa đủ rõ. Phát triển kinh tế phụ thuộc nhiều vào
vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động chuyển dịch chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đầu vào sản xuất của một số ngành còn lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu.
Sản xuất kinh doanh chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá
trị toàn cầu. Xuất khẩu thô, xuất khẩu dưới hình thức gia công còn lớn;
hàm lượng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng còn thấp.
Đổi
mới công nghệ và phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ
cao còn chậm. Năng suất lao động còn thấp. Tỉ trọng công nghiệp chế
biến, chế tạo chỉ đạt khoảng 18% GDP vào năm 2015, thấp hơn nhiều so với
các nước trong khu vực. Chưa phát triển được nhiều sản phẩm có giá trị
công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc
tế.
Cơ
cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm và kết quả
đạt được chưa đồng đều. Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, cơ giới
hoá, công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ phục vụ sản xuất nông
nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu. Hợp tác liên kết trong sản xuất nông nghiệp
phát triển còn chậm. Chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất nông nghiệp
chưa cao; năng suất lao động và thu nhập của người nông dân còn thấp.
Tỉ trọng lao động trong nông nghiệp còn lớn.
Nhiều
ngành dịch vụ phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là các dịch
vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Hệ thống
phân phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông
suốt, hiệu quả và chưa bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các khâu từ sản xuất
đến tiêu thụ. Phát triển du lịch còn chậm, chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế; chất lượng dịch vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Một
số vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế chưa phát huy được vai trò đầu
tàu cho tăng trưởng kinh tế. Không gian phát triển nhiều mặt còn bị chia
cắt theo địa giới hành chính. Thiếu thể chế tạo liên kết giữa các địa
phương trong vùng và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng, lợi
thế.
Cơ
cấu lại đầu tư công ở một số ngành, địa phương còn chưa đáp ứng yêu
cầu; đầu tư còn dàn trải, hiệu quả còn thấp, thất thoát, lãng phí ở một
số dự án còn lớn; xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản còn chậm. Cơ chế, chính
sách chưa đủ sức hấp dẫn để huy động nguồn lực tư nhân trong và ngoài
nước vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; chậm hoàn thiện cơ sở pháp
lý đối với hình thức hợp tác công tư (PPP). Thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài chưa quan tâm nhiều đến công nghệ, tỉ lệ nội địa hoá và bảo
vệ môi trường.
Cơ
cấu lại các tổ chức tín dụng mới thực hiện được giai đoạn đầu. Chất
lượng tín dụng và dịch vụ ngân hàng cải thiện còn chậm. Cơ cấu tín dụng
chưa thật phù hợp với yêu cầu phát triển. Năng lực tài chính, quản trị,
kiểm tra, giám sát nội bộ của một số tổ chức tín dụng còn yếu, nợ xấu
còn cao. Sở hữu và hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần
thiếu minh bạch, có mặt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tái
cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá, thoái vốn ở một số doanh
nghiệp chưa đạt tiến độ. Tỉ lệ vốn được cổ phần hoá còn thấp. Quản trị
doanh nghiệp đổi mới còn chậm; kiểm tra, giám sát nội bộ còn hạn chế.
Việc cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường chậm,
chưa đạt mục tiêu đề ra. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh
nghiệp nhà nước thấp, chưa tương xứng với tài sản và nguồn lực, thất
thoát, lãng phí còn lớn. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò
là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước.
5- Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều mặt yếu kém, khắc phục còn chậm
Phát
triển văn hoá và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhiều mặt còn hạn
chế. Xã hội hoá còn chậm và chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy
động được nhiều nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã
hội.
Thị
trường lao động chưa thật thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó
khăn, thông tin về cung - cầu lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu
lao động chậm; tỉ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp còn lớn. Số
người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu
vực nông thôn; một bộ phận sinh viên sau tốt nghiệp khó tìm được việc
làm. Tỉ lệ lao động không có hợp đồng còn cao (khoảng 64%); thiếu chế
tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Chưa có cơ chế,
chính sách phù hợp để tuyển chọn lao động có năng lực và đưa người không
đáp ứng yêu cầu ra khỏi khu vực nhà nước.
Đời
sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Kết quả giảm nghèo
chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; khoảng cách giàu - nghèo
giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Tỉ lệ hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa,
nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (một số huyện, xã lên
đến 50%). Một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng
chéo, kém hiệu quả và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát
nghèo. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp.
Quỹ bảo hiểm xã hội chưa bền vững.
Công
tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhiều mặt còn hạn chế. Chất
lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Y đức
của một bộ phận cán bộ y tế chưa tốt. Việc khắc phục tình trạng quá tải
bệnh viện còn chậm, nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt
còn bất cập. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với dịch vụ y tế
và cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp y tế công lập còn chậm. Thu
hút nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước và xã hội hoá y tế còn khó khăn. Tỉ
lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng chậm. Quản lý nhà nước về thuốc chữa
bệnh, vệ sinh, an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Công nghiệp dược
phát triển còn chậm. Tuổi thọ bình quân tăng nhưng chất lượng cuộc sống
chưa cao.
Xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu.
Nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong nhân dân. Tệ
nạn xã hội còn diễn biến phức tạp. Quản lý văn hoá, nghệ thuật, lễ hội
nhiều mặt còn hạn chế. Xã hội hoá trong lĩnh vực văn hoá còn chậm, hiệu
quả chưa cao. Nhiều sản phẩm văn hoá, nghệ thuật chất lượng thấp. Đời
sống văn hoá, nhất là vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế. Thể thao
thành tích cao phát triển còn chậm. Quản lý thông tin, báo chí, nhất là
trên internet còn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước về tôn giáo, tín
ngưỡng có mặt còn hạn chế.
6- Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn hạn chế
Quản
lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; thanh
tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm.
Điều
tra cơ bản và quy hoạch sử dụng tài nguyên chưa đáp ứng yêu cầu. Việc
giao quyền quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, khoáng sản, rừng, nguồn
nước chưa phù hợp với kinh tế thị trường và hiệu quả chưa cao.
Tình
trạng ô nhiễm môi trường, nhất là tại các làng nghề, lưu vực sông cải
thiện còn chậm. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên, nhất là hệ sinh thái rừng,
đất ngập nước, thảm thực vật biển giảm cả về diện tích và chất lượng.
Nhiều loài sinh vật, nguồn gen quý đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao.
Việc khắc phục hậu quả về ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn
nhiều khó khăn. Chất lượng dự báo, nguồn lực và năng lực phòng, chống
thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng
ngập lụt ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục. Sạt lở ven biển,
ven sông và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp. Sử dụng năng
lượng tái tạo còn ít.
7- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế
Cải cách hành chính một số mặt chưa đạt yêu cầu. Năng lực xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách chưa cao; một số văn bản pháp luật
ban hành còn chậm, chưa phù hợp với thực tiễn. Chất lượng xây dựng và
quản lý chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ
nhiều cơ quan, đơn vị vẫn còn chồng chéo và chưa đủ cụ thể, chưa rõ
thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Chi lương và
phụ cấp chiếm phần lớn trong tổng kinh phí hoạt động của cơ quan, đơn
vị. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới, chưa
phù hợp với đặc điểm đô thị và hải đảo. Công tác thông tin truyền thông
về chính sách, pháp luật, quản lý điều hành và trách nhiệm giải trình
của các cấp chính quyền còn nhiều hạn chế. Năng lực, phẩm chất, ý thức
kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu
cầu. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, gây bức
xúc cho người dân, doanh nghiệp. Giám sát, phản biện xã hội đối với xây
dựng và thực thi luật pháp, chính sách hiệu quả chưa cao.
Cơ
chế phân cấp quản lý kinh tế, xã hội nhiều mặt chưa thật phù hợp, nhất
là về ngân sách nhà nước, đầu tư, tổ chức, biên chế, quản lý tài nguyên,
đô thị, tài sản công, doanh nghiệp nhà nước; sự phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương thiếu chặt chẽ; làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý
tập trung thống nhất của trung ương và tính năng động, chịu trách nhiệm
của địa phương.
Công
tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu đề ra là ngăn chặn, từng
bước đẩy lùi. Kê khai tài sản còn hình thức. Hoạt động giám sát, kiểm
tra, thanh tra hiệu quả còn thấp. Ý thức tiết kiệm chưa được đề cao;
lãng phí thời gian, nguồn lực xã hội còn lớn. Việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo hiệu quả chưa cao.
8- Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa thật chặt chẽ
Tiềm
lực quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng được yêu cầu. Bảo vệ chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức. Phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh gắn kết chưa thật chặt
chẽ. Chưa có cơ chế, chính sách để phát triển mạnh mô hình công
nghiệp lưỡng dụng. An ninh trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn
vẫn còn phức tạp. Việc bảo đảm bí mật quốc gia còn nhiều yếu kém. Công
tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng còn nhiều bất cập.
Tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng.
9- Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có mặt chưa thật chủ động và hiệu quả chưa cao
Quan
hệ đối ngoại có mặt còn hạn chế. Chưa tạo được nhiều sự đan xen lợi ích
kinh tế với các đối tác. Ngoại giao đa phương chưa phát huy hết các lợi
thế. Khai thác những thuận lợi trong hội nhập hiệu quả chưa cao. Chưa
chuẩn bị tốt các điều kiện để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức
trong hội nhập. Thông tin về hội nhập quốc tế chưa được phổ biến rộng
rãi đến cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Năng lực của một bộ phận
cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Sự gắn kết giữa
hội nhập kinh tế quốc tế với quốc phòng, an ninh, văn hoá, xã hội, ngoại
giao nhân dân có mặt còn hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là :
-
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về
vai trò của Nhà nước, kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, thị trường quyền sử dụng đất, quản lý giá cả, phân bổ nguồn lực, cơ chế cung ứng dịch vụ công, giá dịch vụ trong giáo dục, y tế... chưa đủ rõ và còn khác nhau. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện thể chế,
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách và trong chỉ đạo,
điều hành phát triển kinh tế - xã hội nhiều mặt còn lúng túng, thiếu
nhất quán, chưa thật phù hợp với kinh tế thị trường nên hiệu quả chưa
cao, chưa tạo được động lực mạnh mẽ để huy động các nguồn lực cho đầu tư
phát triển.
- Tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Việc thể chế hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách
trong nhiều trường hợp còn chậm, chất lượng thấp, tính khả thi chưa
cao. Chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện và sơ
kết, tổng kết thực tiễn. Chưa thay thế được kịp thời những cán bộ không
đủ phẩm chất, năng lực, thiếu trách nhiệm, thực thi kém hiệu quả trong
triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
-
Phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội chưa thật phù hợp, hiệu
lực, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển trong kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế. Khả năng phân tích, dự báo còn bất
cập. Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức còn nhiều mặt hạn chế. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
Nhìn tổng quát lại, trong
5 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức rất lớn nhưng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ
thống chính trị và toàn dân, toàn quân, kinh tế - xã hội nước ta đã đạt
được những thành quả quan trọng. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô
dần ổn định. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Các đột phá
chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
đạt được kết quả bước đầu. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Nguồn nhân lực và khoa học, công
nghệ có bước phát triển. Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đạt
kết quả quan trọng. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được cải thiện.
Tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Phát
triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết
quả tích cực. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm. Phúc lợi xã hội và đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Cải cách hành chính có bước tiến
bộ. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Công tác đối ngoại và hội nhập
quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Khối đại đoàn kết
toàn dân được tăng cường. Độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững.
Chính trị - xã hội ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng
lên. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn
trong giai đoạn tới.
Tuy
nhiên, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và
còn nhiều khó khăn, hạn chế. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt
kế hoạch. Việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu. Kinh tế vĩ mô ổn định
chưa vững chắc. Kinh tế phục hồi còn chậm. Chất lượng tăng trưởng một số
mặt còn thấp. Sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Môi trường kinh
doanh còn nhiều hạn chế. Thực hiện ba đột phá chiến lược và cơ cấu lại
nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn vướng mắc, chưa thực
sự trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội. Chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu. Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực chậm được thu hẹp. Văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường
nhiều mặt còn yếu kém, khắc phục còn chậm. Khoảng cách giàu - nghèo còn
lớn. Bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trật tự,
an toàn xã hội còn nhiều khó khăn, thách thức. Chưa khai thác thật tốt
những cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế. Hiệu lực,
hiệu quả lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội nhiều mặt còn hạn chế.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016 - 2020
I- BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Khoa
học, công nghệ phát triển rất nhanh cùng với toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của các quốc gia. Kinh tế thị trường; tiến bộ, công
bằng xã hội; dân chủ - pháp quyền; hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc
gia, vì hoà bình - phát triển và cùng chung tay giải quyết những thách
thức toàn cầu là xu hướng chung của nhân loại.
Kinh tế thế giới phục hồi chậm, không đồng đều và còn nhiều khó khăn. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là trung tâm phát triển năng
động của kinh tế thế giới. Vai trò trung tâm kết nối của ASEAN trong
các thiết chế khu vực tiếp tục được khẳng định nhưng còn nhiều thách
thức. Tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn trong khu vực ngày càng
quyết liệt. Hoà bình và hợp tác phát triển là xu thế lớn nhưng chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố có
biểu hiện gia tăng. Tranh chấp lãnh thổ, đặc biệt là tranh chấp trên
Biển Đông diễn biến phức tạp, gay gắt và rất khó lường.
Các
quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên kết, vừa
hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực,
khoa học, công nghệ. Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng,
nhất là hội nhập kinh tế. Việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do
đã có và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cùng với
việc hình thành Cộng đồng ASEAN trong năm 2015 mở ra nhiều cơ hội thuận
lợi cho phát triển nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức[14] .
Sau 30 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều và có thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã
hội. Tuy 5 năm qua đã đạt được những thành quả quan trọng, nhưng vẫn
còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn rất
nặng nề. Nhu cầu đầu tư cho phát triển, nhất là kết cấu hạ tầng, bảo đảm
an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai, ứng phó
với biến đổi khí hậu rất lớn, nhưng nguồn lực còn hạn hẹp.
Tình
hình trên đây đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, hành động quyết
liệt, năng động, sáng tạo, tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua khó
khăn, thách thức để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.
II- QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Trên
cơ sở quan điểm phát triển đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2011 - 2020, qua thực tiễn 5 năm 2011 - 2015 và yêu cầu của bối
cảnh tình hình mới, quan điểm phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016
- 2020 được xác định là :
1-
Tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế
- xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc
tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo quy luật thị trường, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Đồng thời, Nhà nước sử dụng các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách
phân phối để phát triển văn hoá và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội;
bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội, thu hẹp
khoảng cách giàu - nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.
2-
Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và
không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Phát triển hài hoà giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển
chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế
phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc phòng, an
ninh và giữ vững hoà bình, ổn định để xây dựng đất nước.
3-
Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Tập trung tạo
dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách và môi trường, điều kiện
ngày càng minh bạch, an toàn, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự
do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế
thị trường. Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn
thiện và thực thi thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh
tế - xã hội. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Xây dựng nền hành
chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, trách nhiệm, lấy phục vụ nhân
dân và lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất.
4-
Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập
quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để
phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển
mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực
nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế.
III- MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU
1- Mục tiêu tổng quát
Bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm
trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và
sức cạnh tranh. Phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả
tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ
vững chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ
động hội nhập quốc tế. Giữ gìn hoà bình, ổn định, tạo môi trường, điều
kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước
ta trên trường quốc tế. Tiếp tục xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2- Các chỉ tiêu chủ yếu
2.1- Về kinh tế
Tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020,
GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD. Tỉ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong GDP trên 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5
năm bằng khoảng 32 - 34% GDP. Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4%
GDP. Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 -
30%. Năng suất lao động xã hội bình quân tăng 4 - 5%/năm. Tiêu hao năng
lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến
năm 2020 đạt 38 - 40%.
2.2- Về xã hội
Đến
năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng
35 - 40%. Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có
bằng cấp, chứng chỉ đạt 25 - 26%. Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
dưới 4%. Có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỉ lệ bao
phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân
khoảng 1,3 - 1,5%/năm.
2.3- Về môi trường
Đến
năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước
sạch, hợp vệ sinh và 80 - 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y
tế được xử lý. Tỉ lệ che phủ rừng đạt 44 - 45%.
IV- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1-
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh
tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội
Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực
hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả
các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Việc xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho sản xuất
kinh doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường. Đồng thời,
sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, các công cụ điều tiết, chính sách
phân phối, phân phối lại để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Nhà
nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh của
người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; tạo môi trường đầu
tư, kinh doanh an toàn, thuận lợi; kiểm soát tốt độc quyền kinh doanh.
Đặt doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường. Tập trung
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực và tiềm lực khoa
học, công nghệ.
Đẩy
mạnh cải cách hành chính. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết tranh
chấp kinh tế, thương mại. Không hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế, dân
sự. Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị
- xã hội và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát
thực hiện chính sách, pháp luật. Đề cao vai trò các đoàn thể nhân dân,
các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội người tiêu dùng trong việc bảo vệ
quyền lợi của người dân, doanh nghiệp.
Đa
dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường hàng hoá, dịch
vụ, tài chính, tiền tệ, bất động sản, lao động, khoa học - công nghệ...
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích sản xuất, tiêu
dùng hàng trong nước và phát triển đồng bộ, hiệu quả hệ thống phân
phối.
Phát
triển thị trường tài chính, các thị trường mua bán nợ, công cụ tài
chính phái sinh, cho thuê tài sản... Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị
trường tiền tệ; mở cửa thị trường tín dụng và dịch vụ ngân hàng đáp ứng
yêu cầu phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế. Đẩy mạnh hoạt
động và nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán, thị trường trái
phiếu để trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền
kinh tế. Phát triển thị trường bảo hiểm, mở cửa thị trường theo lộ
trình cam kết; đa dạng và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm.
Hoàn
thiện pháp luật, cơ chế, chính sách và có giải pháp phù hợp tạo điều
kiện thuận lợi phát triển bền vững thị trường bất động sản, bảo đảm vận
hành thông suốt, hiệu quả. Phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất,
bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nhất là đối với đất
nông nghiệp để khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất.
Phát
triển thị trường lao động, bảo đảm đồng bộ, liên thông, minh bạch và
tạo thuận lợi cho việc tự do dịch chuyển lao động. Phát triển mạnh thị
trường nhân lực chất lượng cao, nhất là lao động kỹ thuật và nhân lực
quản trị kinh doanh. Tăng cường quản lý, mở rộng thị trường và nâng cao
hiệu quả đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Phát
triển đồng bộ thị trường khoa học, công nghệ. Có cơ chế, chính sách phù
hợp để đẩy mạnh thương mại hoá sản phẩm khoa học, công nghệ và phát
triển sàn giao dịch, kết nối cung - cầu. Tăng cường chuyển giao công
nghệ, kết nối thị trường trong nước với khu vực và thế giới gắn với bảo
hộ sở hữu trí tuệ. Phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa
học, công nghệ, hình thành hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học, công
nghệ.
Thực
hiện cơ chế thị trường và đẩy mạnh xã hội hoá đối với cung cấp các dịch
vụ công. Cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công, giao quyền tự chủ phù
hợp, nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động theo cơ chế doanh
nghiệp. Chuyển từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng và từ cấp kinh phí cho
các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng. Đối với những hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu, bao gồm dịch vụ y tế, giáo dục mà Nhà nước đang kiểm soát giá, phải bảo đảm công khai,
minh bạch các yếu tố hình thành giá; tính đúng, tính đủ chi phí và thực
hiện giá thị trường theo lộ trình phù hợp. Đồng thời, hỗ trợ cho đối
tượng chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ
công, nhất là các hình thức hợp tác công tư. Bảo đảm bình đẳng giữa đơn
vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập. Đa dạng hình thức xã hội hoá
các đơn vị sự nghiệp công như, thí điểm cổ phần hoá đơn vị sự nghiệp
công; giao cộng đồng quản lý, cho thuê cơ sở vật chất, tài sản của Nhà
nước để kinh doanh cung ứng dịch vụ công và thực hiện cơ chế đơn vị sự
nghiệp công hoạt động như doanh nghiệp công ích.
Phối
hợp hiệu quả giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và các chính
sách khác để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền
kinh tế. Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, kiểm soát tốt lạm phát,
bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam, tăng dự trữ ngoại hối; điều hành
lãi suất, tỉ giá theo tín hiệu thị trường. Tiếp tục cơ cấu lại các tổ
chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống; thực hiện
công khai, minh bạch và áp dụng chuẩn mới về quản trị ngân hàng theo
thông lệ quốc tế.
Quản lý chặt chẽ thu, chi ngân sách nhà nước. Động viên hợp lý các
nguồn lực, phấn đấu tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước trên GDP bình
quân khoảng 20 - 21%. Tăng tỉ trọng thu nội địa và xây dựng hệ thống
thuế đồng bộ, hiện đại. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, bảo đảm tỉ lệ
hợp lý giữa chi thường xuyên, chi đầu tư và chi trả nợ. Phấn đấu giảm
dần tỉ lệ bội chi ngân sách nhà nước. Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu
quả vốn vay, từng bước giảm dần hạn mức cấp bảo lãnh Chính phủ, vay về
cho vay lại; kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của chính quyền địa
phương; xác định trần nợ công phù hợp để có thêm nguồn lực cho đầu tư
phát triển và bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
Tăng cường huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, phân bổ vốn theo kế hoạch đầu tư
trung hạn 5 năm phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ưu
tiên cho các công trình hạ tầng trọng điểm, cấp thiết. Bố trí nguồn lực
tài chính nhà nước phù hợp để tham gia và thúc đẩy đầu tư của khu vực
ngoài nhà nước. Điều chỉnh phân bổ vốn đầu tư nhà nước gắn với phân cấp
phù hợp giữa Trung ương và địa phương.
Phát
triển mạnh thị trường trong nước, mở rộng và đa dạng hoá thị trường
ngoài nước, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường. Đẩy mạnh xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu phù hợp, phấn đấu cân bằng thương mại bền
vững. Tăng cường xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây
dựng thương hiệu hàng Việt Nam. Tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi
của các Hiệp định, Thoả thuận thương mại để thúc đẩy xuất khẩu; đồng
thời có biện pháp phòng vệ thích hợp để bảo vệ sản xuất và lợi ích người
tiêu dùng. Phấn đấu đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân khoảng 10%/năm.
Tăng
cường quản lý thị trường, giá cả. Bảo đảm cân đối cung - cầu, nhất là
các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. Tập trung đẩy mạnh phòng, chống buôn
lậu, gian lận thương mại.
2- Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh
Đổi
mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nhanh, bền vững trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết
hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển
chiều sâu, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, huy động và
sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, không ngừng nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Gắn kết hài hoà tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải thiện môi trường, ứng phó
với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực.
2.1- Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
Tập
trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp,
xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân.
Đẩy
mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng
hoá lớn; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phát triển bền vững, an ninh
lương thực quốc gia và vệ sinh, an toàn thực phẩm. Phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng giá trị gia tăng khu vực nông nghiệp bình quân khoảng 3 -
3,5%/năm.
Khai
thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tập trung phát triển sản
phẩm có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng cao và có khả năng tham gia
hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bảo vệ và sử dụng linh hoạt, hiệu
quả đất trồng lúa. Khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển
các vùng sản xuất quy mô lớn với hình thức đa dạng, phù hợp với điều
kiện của từng vùng và đặc điểm của từng sản phẩm.
Tổ
chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị. Gắn sản xuất
với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp
tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với các tổ chức hợp tác và doanh
nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và bảo đảm hài hoà lợi
ích của các chủ thể tham gia. Khuyến khích liên kết giữa hộ nông dân sản
xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp.
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty
và các nông, lâm trường quốc doanh. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là Hội Nông dân và các hiệp
hội ngành hàng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Đẩy
mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý. Áp dụng rộng rãi các
loại giống mới và kỹ thuật nuôi trồng có năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao. Hỗ trợ nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp.
Tập
trung thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu
đến năm 2020 khoảng 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Rà soát, hoàn
thiện cơ chế, chính sách và tiêu chí xây dựng nông thôn mới phù hợp với
đặc thù từng vùng. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tín dụng ưu đãi và
huy động các nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh
tế - xã hội. Có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình,
kinh tế trang trại và thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại địa bàn nông thôn.
Đồng thời đẩy mạnh đào tạo nghề với các hình thức đa dạng, phù hợp,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn.
Thực
hiện tốt các chính sách phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và nâng cao đời sống của người dân trên địa bàn nông thôn.
Tập trung làm tốt công tác nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, giải
quyết việc làm, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh trật tự và
bảo vệ môi trường. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân. Giữ gìn và phát huy truyền thống, tập quán
tốt đẹp của làng quê Việt Nam.
2.2- Đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nghiên cứu hoàn thiện tiêu chí để xác định các chỉ tiêu thực hiện mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Rà soát, bổ sung chiến lược phát triển công
nghiệp; phân bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp. Đẩy nhanh phát triển các ngành
công nghiệp có hàm lượng khoa học, công nghệ, có tỉ trọng giá trị quốc
gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh tranh, tham gia mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công
nghiệp, xây dựng bình quân khoảng 7,5%/năm; đến năm 2020 tỉ trọng công
nghiệp, xây dựng trong GDP khoảng 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng 15%.
Phát
triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản
xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp năng lượng, luyện
kim, hoá dầu, hoá chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi
trường, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khuyến khích phát triển
doanh nghiệp cơ khí chế tạo mạnh và sản phẩm cơ khí trọng điểm. Tập
trung phát triển công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ thông tin,
công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy
nông nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường liên
kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành
các khu công nghiệp hỗ trợ theo cụm liên kết ngành.
Phát
triển vững chắc, hiệu quả công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển
phù hợp doanh nghiệp có khả năng sản xuất sản phẩm lưỡng dụng. Từng bước
hình thành tổ hợp công nghiệp quốc phòng với sự tham gia của nhiều loại
hình doanh nghiệp.
Phát
triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến. Tiếp cận và làm chủ các
công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực công nghiệp xây lắp, đáp ứng yêu
cầu xây dựng trong nước và có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát triển
mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng, nhất là vật liệu mới, vật liệu chất
lượng cao.
2.3- Phát triển các ngành dịch vụ
Đẩy
mạnh phát triển các ngành dịch vụ, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình
quân 7 - 7,5%/năm.Tỉ trọng khu vực dịch vụ trong GDP khoảng 45% vào năm
2020. Ưu tiên phát triển những ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng
tri thức, công nghệ và giá trị gia tăng cao.
Phát
triển vận tải với cơ cấu hợp lý, hiệu quả. Tăng thị phần vận tải đường
sắt, đường biển và đường thuỷ nội địa. Nâng cao chất lượng vận tải đường
bộ và đường hàng không. Tăng cường kết nối giữa các phương thức vận
tải, khuyến khích phát triển vận tải đa phương thức và logistics. Tạo
môi trường cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí vận
tải.
Phát
triển mạnh dịch vụ thông tin truyền thông đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế thuê
dịch vụ công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ
công.
Phát
triển đồng bộ hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ. Chú trọng phát triển
thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam. Tăng
cường kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất, phân phối, các hiệp hội và cơ
quan quản lý để phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước. Chủ động
tham gia vào mạng phân phối toàn cầu.
Tập
trung phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, ngân
hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
Phát
triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu tư phát triển du lịch với hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện
đại, sản phẩm đa dạng và tính chuyên nghiệp cao. Tạo mọi thuận lợi về
thủ tục xuất nhập cảnh, đi lại và bảo đảm an toàn, an ninh. Đẩy mạnh xúc
tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam. Khai thác hiệu
quả, bền vững các di sản văn hoá, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam
thắng cảnh và gìn giữ vệ sinh môi trường. Phát triển các khu dịch vụ du
lịch phức hợp, có quy mô lớn và chất lượng cao.
Khuyến
khích các thành phần kinh tế phát triển mạnh các dịch vụ y tế, giáo
dục, văn hoá, nghệ thuật, thể thao..., nhất là dịch vụ chất lượng cao về
đào tạo nguồn nhân lực và chăm sóc sức khoẻ.
2.4- Phát triển kinh tế biển
Phát
triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền
quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu
khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai thác và
chế biến hải sản, các dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển, đảo. Xây
dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven
biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng biển, đảo. Đẩy
nhanh điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển, đảo. Tăng cường
nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong
việc khai thác hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên biển. Xây dựng
các cơ sở hậu cần nghề cá, tránh trú bão, hỗ trợ ngư dân khai thác hải
sản xa bờ và hoạt động dài ngày trên biển. Tạo điều kiện thuận lợi và
khuyến khích người dân định cư lâu dài trên các đảo. Tăng cường công tác
cứu hộ, cứu nạn và bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, đảo.
2.5- Phát triển các vùng và khu kinh tế
Hoàn
thiện quy hoạch vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng.
Nâng cao chất lượng xây dựng và quản lý quy hoạch, nhất là quy hoạch kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và quy hoạch sử dụng tài nguyên. Tăng
cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng để phát huy
tối đa tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương và ứng phó
hiệu quả với thiên tai, biến đổi khí hậu; tạo không gian phát triển
thống nhất trong vùng và cả nước; khắc phục tình trạng phát triển trùng
dẫm, manh mún, kém hiệu quả. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư liên kết
hình thành các vùng kinh tế chuyên ngành quy mô lớn với các nhóm sản
phẩm có sức cạnh tranh cao. Nghiên cứu cơ chế quản lý liên kết hợp tác
phát triển vùng phù hợp. Tạo điều kiện phát triển các khu vực còn nhiều
khó khăn, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nam bộ và phía Tây các tỉnh miền Trung. Rà soát quy hoạch, hoàn thiện
cơ chế, chính sách để phát huy hiệu quả các khu kinh tế hiện có. Lựa
chọn một số khu có lợi thế đặc biệt để xây dựng đặc khu kinh tế với thể
chế vượt trội, hiệu lực, hiệu quả, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát
triển các hành lang, vành đai kinh tế, kết nối hiệu quả với các nước
trong khu vực. Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu. Nghiên cứu việc hình
thành một số khu kinh tế xuyên biên giới.
2.6- Đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp
Về doanh nghiệp nhà nước:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nâng
cao hiệu quả hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực
và địa bàn quan trọng; xác định rõ danh mục và tăng cường tiềm lực, khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn và cần
nắm giữ cổ phần chi phối. Đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành, cổ
phần hoá và bán hết phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp mà Nhà nước
không cần nắm giữ theo cơ chế thị trường. Tăng cường quản lý nhà nước
và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Bố trí đúng cán
bộ lãnh đạo, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Phân định rõ hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ
chế thị trường với thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao về đảm bảo hàng
hoá, dịch vụ cần thiết, công ích, quốc phòng, an ninh bằng hình thức Nhà
nước đặt hàng. Xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ
chế thị trường và thông lệ quốc tế. Nghiên cứu mô hình quản lý phù hợp
của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn của Nhà
nước tại doanh nghiệp.
Về doanh nghiệp tư nhân: Tạo
mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo
động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn thiện pháp
luật, cơ chế, chính sách để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng các
nguồn lực, nhất là về vốn, đất đai, tài nguyên. Thúc đẩy xã hội hoá sở
hữu và sản xuất kinh doanh, khuyến khích phát triển các hình thức doanh
nghiệp cổ phần. Trợ giúp để phát triển mạnh doanh nghiệp nhỏ và vừa,
kinh tế hộ gia đình, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin. Khuyến
khích hình thành doanh nghiệp lớn, thương hiệu mạnh. Hỗ trợ doanh nghiệp
đầu tư nghiên cứu phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học và đổi mới công
nghệ, nâng cao sức cạnh tranh và tham gia vào chuỗi giá trị trong và
ngoài nước.
Về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Rà
soát, sửa đổi pháp luật, chính sách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài,
nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có
giá trị gia tăng và tỉ lệ nội địa hoá cao, tham gia mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Khuyến khích đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lượng
tái tạo, vật liệu mới, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo nhân lực và chăm sóc sức khoẻ
chất lượng cao... Có cơ chế ưu đãi linh hoạt đối với các dự án đặc thù.
Khuyến khích thành lập các trung tâm nghiên cứu triển khai của doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Về kinh tế hợp tác: Khuyến
khích phát triển bền vững kinh tế hợp tác, nòng cốt là hợp tác xã với
nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; tạo điều kiện cho kinh tế hộ
phát triển có hiệu quả trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ; góp phần hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu
thụ; bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia. Tạo điều kiện
hình thành những tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao.
3- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị
Đẩy
mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ với một số công trình hiện đại. Nâng cao chất lượng quy hoạch
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, bảo đảm hiệu quả tổng hợp và
tính hệ thống, nhất là mạng lưới giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, thông
tin truyền thông, giáo dục, y tế.
Tập
trung nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình lớn, quan trọng, thiết
yếu, nhất là tại các khu vực có tiềm năng phát triển và giải quyết các
ách tắc, quá tải. Bảo đảm kết nối thông suốt giữa các trung tâm kinh tế
lớn, các đầu mối giao thông cửa ngõ, các tuyến có nhu cầu vận tải lớn[15] .
Quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông tại các vùng khó khăn. Ưu
tiên đầu tư các dự án hạ tầng đáp ứng yêu cầu ứng phó với biến đổi khí
hậu, nước biển dâng.
Từng
bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại,
thân thiện với môi trường, nhất là các đô thị lớn. Nâng cao chất lượng
và quản lý tốt quy hoạch đô thị, bảo đảm phát triển bền vững. Khuyến
khích phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp và công nhân khu công
nghiệp.
Hoàn
thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho các
thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng và kinh
doanh kết cấu hạ tầng bằng nhiều hình thức, nhất là hợp tác công tư
(PPP) phù hợp với thông lệ quốc tế. Tăng cường quản lý, bảo đảm tiến độ,
hiệu quả và chất lượng công trình, chống thất thoát, lãng phí.
4- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ
Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát
triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý
thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân. Chú trọng phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đổi
mới khung chương trình, quan tâm hơn đến yêu cầu tăng cường kỹ năng
sống, giảm tải nội dung trong các bậc học phổ thông; nâng cao kiến thức
chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề; phát huy tư duy
sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học. Đổi mới mục tiêu, nội
dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo.
Đẩy mạnh phân luồng, liên thông trong giáo dục, đào tạo. Phát triển giáo
dục đại học theo hướng hình thành cơ sở giáo dục đại học định hướng
nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng và cơ sở giáo dục
đại học định hướng thực hành. Phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản
lý đáp ứng yêu cầu đổi mới. Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ và thu hút các nhà khoa học tham gia giảng dạy.
Phát
triển hợp lý và bảo đảm bình đẳng giữa giáo dục công lập và giáo dục
ngoài công lập. Ngân sách nhà nước bảo đảm cho giáo dục phổ cập và tiếp
tục kiên cố hoá trường, lớp học. Khuyến khích xã hội hoá đầu tư phát
triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào
tạo. Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo, nhất là các
trường đại học, trường dạy nghề. Thí điểm chuyển đổi mô hình trường công
lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu tư
phát triển. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp. Phân
cấp quản lý hợp lý trong đào tạo nghề. Quan tâm phát triển giáo dục, dạy
nghề trong đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn. Hoàn thiện
chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó
khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng giúp học sinh, sinh viên
nghèo vượt khó, học giỏi. Có cơ chế đặc thù để tuyển chọn và trọng dụng
nhân tài.
Tăng
cường quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, gắn kết cung - cầu. Thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động
và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ.
Tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới
sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh
nghiệp, tổ chức. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do sáng tạo
trong hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
Khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Tăng cường
hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học. Đổi mới cơ chế
quản lý, nhất là cơ chế tự chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ
chức khoa học, công nghệ công lập. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản
trí tuệ, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm các vi
phạm. Hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao và kiểm soát chặt
chẽ việc nhập khẩu công nghệ.
Có
cơ chế đặc thù để phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ
trọng điểm theo mô hình tiên tiến và triển khai những dự án khoa học,
công nghệ quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu, khoán kinh phí theo
kết quả đầu ra và công khai, minh bạch chi phí, kết quả nghiên cứu.
Giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ có sử dụng ngân
sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân chủ trì nghiên cứu, đồng thời có cơ
chế phân chia lợi ích hợp lý. Nâng cao hiệu quả hoạt động các quỹ về
phát triển khoa học, công nghệ; khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám
định xã hội đối với hoạt động khoa học, công nghệ.
Sử
dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước và có cơ chế, chính sách thu
hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư nghiên cứu phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ. Xây dựng một số viện nghiên cứu ứng dụng khoa
học, công nghệ hiện đại, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo và
vườn ươm công nghệ. Tạo thuận lợi thúc đẩy phát triển mạnh doanh nghiệp
khoa học, công nghệ. Có chính sách trọng dụng và tôn vinh đội ngũ khoa
học, công nghệ. Khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước
ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa học, công nghệ tại
Việt Nam.
5- Phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân
Phát
triển bền vững văn hoá, xã hội trên cơ sở gắn kết chặt chẽ, hài hoà
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá và thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Tiếp
tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống người có công. Rà soát,
hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã
hội. Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và
có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc
thiểu số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ
nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Thực hiện
tốt chính sách việc làm công, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất
việc. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao động
đi làm việc ở nước ngoài. Mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả
của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ
bảo hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia
của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Bảo đảm mức
tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế,
nhà ở, nước sạch, thông tin.
Cải
cách chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù
hợp với tăng năng suất lao động. Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở,
mức lương tối thiểu theo lộ trình phù hợp, bảo đảm mức sống tối thiểu
của người lao động. Thực hiện cơ chế đối thoại và thoả thuận về tiền
lương giữa các bên, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ. Có cơ
chế để công đoàn và tổ chức đại diện người sử dụng lao động giám sát
thực hiện thoả ước lao động tập thể. Nghiên cứu điều chỉnh tuổi nghỉ hưu
phù hợp. Tăng cường quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam. Tiếp tục
hoàn thiện chính sách tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng
hệ thống tiêu chuẩn quản lý nhân lực và hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng
suất lao động. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ lao động.
Nâng
cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng ở tất cả các
tuyến. Phát triển y học cổ truyền. Quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu,
phát triển hệ thống y tế dự phòng, chủ động phòng bệnh, không để xảy ra
dịch bệnh lớn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục nhanh tình
trạng quá tải bệnh viện. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở y tế, hoàn thành
việc xây dựng một số bệnh viện tuyến cuối; nhân rộng mô hình bệnh viện
vệ tinh và bác sĩ gia đình. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng
dụng công nghệ thông tin, áp dụng tiêu chuẩn quản lý và kiểm tra chất
lượng dịch vụ khám, chữa bệnh. Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực y tế cả về số lượng và chất lượng. Nâng cao trình độ chuyên môn,
trách nhiệm và y đức của đội ngũ cán bộ y tế. Chú trọng phát triển nhân
lực y tế trình độ cao, tăng cường nhân lực y tế cho khu vực nông thôn,
miền núi, biên giới, hải đảo.
Tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển y tế ngoài công lập, thí điểm hình
thành cơ sở khám, chữa bệnh theo hình thức hợp tác công tư và mô hình
quản lý bệnh viện như doanh nghiệp công ích. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện
bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới cơ chế tài chính, điều chỉnh giá dịch
vụ y tế theo lộ trình, tính đúng, tính đủ và bảo đảm công khai, minh
bạch; đồng thời hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo.
Khuyến
khích phát triển công nghiệp dược. Tăng cường quản lý thuốc chữa bệnh.
Đẩy mạnh công tác bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Chú trọng công tác
dân số, kế hoạch hoá gia đình, cải thiện tình trạng mất cân bằng giới
tính khi sinh. Cùng với nâng cao chất lượng cuộc sống, phấn đấu tuổi thọ
trung bình đến năm 2020 đạt 75 tuổi.
Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước về văn hoá. Phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng. Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện và môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các
thiết chế văn hoá. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hoá
tiêu biểu.
Khuyến
khích tự do sáng tạo trong hoạt động văn hoá, văn học - nghệ thuật đi
đôi với đề cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ,
các nhà văn hoá. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả. Bảo tồn,
phát huy các di sản và giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Chủ động hợp
tác và giao lưu quốc tế về văn hoá, quảng bá văn hoá Việt Nam, tiếp
nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, hoàn thiện bản sắc văn hoá
tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo
và bảo đảm tự do tín ngưỡng.
Phát
triển hiệu quả, lành mạnh hệ thống báo chí, xuất bản, phát thanh,
truyền hình đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ đất nước và nhu cầu thụ
hưởng ngày càng cao của nhân dân. Phát triển thể dục, thể thao cho mọi
người và thể thao thành tích cao, chuyên nghiệp. Quan tâm chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Chăm sóc và phát huy vai trò người cao
tuổi. Thực hiện hiệu quả các giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự
tiến bộ của phụ nữ. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, xã hội.
6- Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tăng
cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách và thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, phòng, chống thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi
phạm.
Nâng
cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu. Đề
cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang; phát huy
vai trò của cộng đồng, của doanh nghiệp và tăng cường hợp tác quốc tế,
thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến
đổi khí hậu và tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ.
Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, hoàn thiện quy hoạch và tăng cường quản lý, giám sát, sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm các
nguồn tài nguyên. Khai thác, sử dụng khoáng sản gắn với bảo vệ môi
trường, hạn chế tối đa xuất khẩu nguyên liệu thô. Thực hiện việc đấu
thầu quyền khai thác, hoạt động khai thác khoáng sản. Nâng cao chất
lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch và quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất.
Khai thác và sử dụng bền vững nguồn nước; chủ động hợp tác quốc tế
trong việc bảo vệ và sử dụng nguồn nước xuyên quốc gia.
Cải
thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân. Kiểm soát
chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm. Hạn chế, tiến tới ngăn chặn căn bản tình
trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, lưu vực sông, khu công
nghiệp, khu đô thị. Tập trung xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm
nghiêm trọng. Kiểm soát chất lượng không khí ở khu vực đô thị có mật độ
dân cư cao. Thực hiện quy chuẩn, tiêu chuẩn phát thải và công nghệ theo
lộ trình phù hợp. Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng
phòng hộ ven biển, rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng; bảo tồn thiên nhiên và
đa dạng sinh học. Khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo và các nguyên
liệu, vật liệu mới, thân thiện với môi trường.
7- Phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Tiếp
tục hoàn thiện thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách, bảo đảm chặt
chẽ, công khai, minh bạch và thực hiện đồng bộ các giải pháp về phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tập trung vào các
lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực. Kiện toàn tổ chức bộ máy phòng, chống
tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định về kê khai, kiểm soát kê khai tài
sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Chú trọng giáo
dục phẩm chất đạo đức và trách nhiệm công vụ. Đề cao trách nhiệm của tổ
chức đảng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều
tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi tham
nhũng, lãng phí. Tăng cường giám sát và phòng, chống tham nhũng trong
các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thiết
lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả. Phát huy vai trò
giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Làm tốt công tác tiếp nhận
thông tin và xử lý khiếu nại, tố cáo. Có cơ chế hữu hiệu bảo vệ người
phát hiện, tố cáo tham nhũng. Phát huy vai trò và trách nhiệm của cơ
quan thông tin truyền thông trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nghiêm trị những hành vi lợi dụng chống tham nhũng để vu khống, tố cáo
sai sự thật. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng.
8- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội
Xây
dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tập
trung tạo dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách và môi trường,
điều kiện thuận lợi, an toàn để kinh tế thị trường vận hành đầy đủ,
thông suốt, hiệu quả và phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do sáng tạo
của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Nhà
nước quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật,
quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết phù hợp với kinh tế thị
trường.
Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai,
minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ tốt nhất người dân và
doanh nghiệp. Khuyến khích, hỗ trợ cho mọi ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy
đổi mới phát triển, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học
- công nghệ, văn hoá, nghệ thuật...
Xây
dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, hiệu lực, hiệu
quả, lấy kết quả phục vụ người dân, doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, năng
lực, trách nhiệm và tính chuyên nghiệp cao. Đổi mới công tác tuyển dụng,
đề bạt cán bộ, công chức, bảo đảm cạnh tranh, công khai, minh bạch.
Đánh giá cán bộ, công chức phải trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Người đứng đầu cơ quan trong bộ máy nhà nước phải chịu trách nhiệm về
kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và phải được trao quyền quyết định
tương ứng về tổ chức, cán bộ.
Tập
trung cải cách thủ tục hành chính gắn với nâng cao chất lượng chính
sách, pháp luật; quy định rõ cơ quan chịu trách nhiệm đối với từng thủ
tục hành chính. Chỉ quy định những thủ tục hành chính thực sự cần thiết,
hợp lý, đúng pháp luật và tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh
nghiệp. Công khai, minh bạch các quy trình, thủ tục hành chính. Bảo đảm
quyền tự do của người dân, doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế đi đôi
với tuân thủ pháp luật. Thiết lập hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý
kiến nghị và kết quả giải quyết thủ tục hành chính. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cung cấp
dịch vụ công và thực hiện chính phủ điện tử. Tăng cường thanh tra, kiểm
tra, giám sát, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp
luật.
Hoàn
thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm thống nhất, thông suốt trong lãnh đạo,
quản lý, điều hành từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng không gian phát
triển kinh tế thống nhất trên cả nước, trong từng vùng theo nguyên tắc
kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ. Phân
định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa
Trung ương và địa phương, bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của
Trung ương và phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp
chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ chế phân cấp đầu tư, ngân sách,
bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch phát triển và cân đối nguồn lực.
Hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bảo đảm phục vụ
tốt nhất người dân, doanh nghiệp. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm
quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội đối với chính quyền các cấp. Tập
trung vào cung cấp dịch vụ công, bảo đảm an sinh xã hội, an toàn xã hội,
nâng cao phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống cho người dân. Hoàn
thiện chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy phù hợp đối với chính quyền
đô thị, hải đảo.
9-
Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
Thực
hiện tốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo
đảm độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội và môi trường hoà bình để xây dựng, bảo vệ đất nước.
Không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng quân
đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, ưu tiên hiện đại nhanh ở những lĩnh vực cần thiết, bảo
đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực
lượng thực thi pháp luật trên biển.
Kết
hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội. Xây dựng đường tuần tra biên giới. Nâng cao hiệu quả hoạt động
của các khu kinh tế quốc phòng và phát triển bền vững kinh tế, xã hội
khu vực dọc biên giới và biển, đảo. Có chính sách phù hợp để triển khai
thực hiện một số nhiệm vụ đặc thù về quốc phòng, an ninh.
Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, tranh thủ sự ủng hộ của
cộng đồng quốc tế để duy trì môi trường hoà bình, củng cố quốc phòng, an
ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tham gia hoạt động giữ gìn hoà bình
của Liên hợp quốc phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thực
hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đẩy
mạnh phòng, chống, phấn đấu hạn chế tội phạm và tệ nạn xã hội. Tăng
cường an ninh, an toàn thông tin mạng. Bảo đảm trật tự, an toàn và giảm
tai nạn giao thông.
10-
Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo
môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước
Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Đưa
quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Nâng
cao hiệu quả hoạt động đối ngoại đa phương, nhất là trong ASEAN, Liên
hợp quốc. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Kiên trì thúc đẩy giải quyết
các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp
quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.
Thực
hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và chủ động, tích cực đàm phán, ký
kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, khai thác tối đa các cơ
hội thuận lợi, hạn chế thấp nhất các tác động tiêu cực để mở rộng thị
trường, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển.
Nâng
cao chất lượng công tác tham mưu về đối ngoại. Tăng cường công tác
thông tin đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và
tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Đẩy
mạnh công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và hỗ trợ đồng
bào ta ở nước ngoài đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để phát triển và hoà nhập
tốt với cộng đồng nước sở tại, đóng góp vào tăng cường hữu nghị, hợp
tác giữa Việt Nam với các nước. Tạo thuận lợi để kiều bào tham gia xây
dựng và bảo vệ đất nước. Làm tốt công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài.
Phần thứ ba
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng chỉ đạo quán triệt
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các cấp, các ngành và tăng cường
lãnh đạo, tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động và chỉ đạo triển
khai thực hiện.
2-
Xây dựng cơ chế và đưa vào nền nếp việc thường xuyên theo dõi, kiểm
tra, đánh giá tình hình thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020. Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm
vụ, khi xuất hiện những vấn đề cần đổi mới mà chưa có chủ trương, Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định việc thực hiện thí điểm.
3-
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc thực hiện và giám sát
thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 -
2020.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
[1] Tháng 10-2010, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo kinh tế thế giới năm 2011 tăng 4,2%, giai đoạn 2012 - 2015 tăng 4,6%/năm. Thực tế tăng trưởng kinh tế thế giới (theo Báo cáo của IMF vào tháng 01-2015) năm 2011 tăng 3,9%, năm 2012 tăng 3,2%, năm 2013 tăng 3,3%, năm 2014 tăng 3,3% và năm 2015 dự kiến tăng 3,5%.
[2] Tỉ
lệ nợ công/GDP vào cuối năm 2014 là 59,3%, nợ Chính phủ/GDP là 47,1%,
nợ được Chính phủ bảo lãnh là 11,3%. Dự kiến đến cuối năm 2015, tỉ lệ nợ
công/GDP khoảng 62,3% (theo Nghị quyết của Quốc hội, đến năm 2015 nợ
công không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài
của quốc gia không quá 50% GDP).
[3] Tăng
trưởng GDP năm 2011 đạt 6,24%, năm 2012: 5,25%, năm 2013: 5,42%, năm
2014: 5,98% và kế hoạch năm 2015 là 6,2%. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế
giới tại Hội nghị Đối tác Phát triển Việt Nam (ngày 05-12-2014), trong
giai đoạn khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 -
2013), tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Trung Quốc đạt 8,5%, Việt
Nam đạt 4,6%, In-đô-nê-xi-a đạt 4,5%, Phi-líp-pin đạt 3,3%, Thái Lan
đạt 2,7%, Ma-lai-xi-a đạt 2,6%.
[4] Tính theo giá hiện hành.
[5] Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 24 - 25%. Tiêu hao điện năng trên một đơn vị GDP giảm từ 0,8 kwh năm 2010 xuống còn 0,71 - 0,72 kwh năm 2015. Chỉ số ICOR giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 6,5 (giai đoạn 2006 - 2010 là 6,96).
[6] Bước đầu thiết lập mạng đường bộ cao tốc với các tuyến Hà Nội - Lào Cai; Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây; Bến Lức - Long Thành; Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Hà Nội - Thái Nguyên; Hà Nội - Hải Phòng; Cầu Giẽ - Ninh Bình.
Hoàn thành các công trình giao thông quan trọng: Nhà ga T2 Cảng hàng
không quốc tế Nội Bài, cầu Nhật Tân, đường cao tốc cầu Nhật Tân - Nội
Bài, cảng Cái Mép - Thị Vải, cảng hàng không Phú Quốc mới, sân bay Thọ
Xuân, cải tạo Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng, Cảng hàng không Vinh...
Hoàn thành các dự án cải tạo mở rộng Quốc lộ 1, Đường Hồ Chí Minh đoạn
qua Tây Nguyên vượt so với tiến độ dự kiến 1 năm. Đang xây dựng các
tuyến tàu điện ngầm, đường sắt trên cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh, cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, đường
bộ cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn, Trung Lương - Mỹ Thuận, Mỹ Thuận - Cần
Thơ... Theo đánh giá 2 năm một lần của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF),
năm 2014, WEF xếp hạng năng lực và chất lượng hạ tầng giao thông Việt
Nam đứng vị trí 74, tăng 16 bậc so với năm 2012 và tăng 29 bậc so với
năm 2010.
[7] Trong
5 năm 2011 - 2015, đã tăng thêm 16,8 nghìn MW công suất nguồn; khoảng
7,6 nghìn km truyền tải 500 kV, 220 kV và 37,4 nghìn MVA công suất các
trạm biến áp. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành và đang được xây dựng
như: Thuỷ điện Sơn La, Lai Châu; Nhiệt điện Duyên Hải, Vĩnh Tân; đưa
điện lưới ra các đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cô Tô, Vân Đồn...
[8] Đến
năm 2015 bảo đảm tưới trực tiếp cho 3,5 triệu ha đất canh tác, tạo
nguồn tưới cho hơn 1 triệu ha, tiêu cho 1,7 triệu ha; tỉ lệ đô thị hoá
dự báo đạt khoảng 35%.
[9] Đến
cuối năm 2014, đã có trên 11,4 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội,
trên 8,5 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và trên 72% dân số
tham gia bảo hiểm y tế.
[10]
Trong điều kiện phương tiện giao thông tăng nhanh, số người chết do tai
nạn giao thông giảm từ 11.395 người năm 2011 xuống 8.996 người năm
2014.
[11] Năm 2014, tỉ lệ xuất khẩu của khu vực trong nước chiếm 32,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
[12] Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, kiểm tra, thi cử, đánh giá chất lượng lạc hậu, đổi mới chậm, lúng túng.
[13] Đến
năm 2020, dự kiến có 10/15 chỉ tiêu không đạt tiêu chí các nước công
nghiệp: GDP bình quân đầu người đạt 3.200 - 3.500 USD theo giá thực tế
(theo tiêu chí nước công nghiệp là trên 5.000 USD, giá năm 2010); tỉ trọng công nghiệp chế tạo trong GDP đạt 15% (theo tiêu chí: trên 20%); tỉ trọng nông nghiệp trong GDP dự kiến đạt 15% (theo tiêu chí: dưới 10%); tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 35 - 40% (theo tiêu chí: 20 - 30%), tỉ lệ đô thị hoá đạt 38 - 40%
(theo tiêu chí: trên 50%); điện sản xuất bình quân đầu người đạt 2.800
KWh/người (theo tiêu chí: trên 3.000 KWh/người); chỉ số phát triển con
người (HDI) đạt 0,67 (theo tiêu chí: trên 0,7); chỉ số bất bình đẳng thu
nhập (Gini) khoảng 0,38 - 0,4 (theo tiêu chí: 0,32 - 0,38); tỉ lệ lao
động qua đào tạo (có bằng cấp, chứng chỉ) trong tổng lao động xã hội đạt
25 - 26% (theo tiêu chí: trên 55%); tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch dưới
92% (theo tiêu chí: 100%).
[14] Danh mục 8 Hiệp định thương mại tự do (FTAs) mà Việt Nam đã tham gia gồm: FTA Việt Nam - Chi-lê (CVFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA); cùng ASEAN tham gia 6 FTAs:
Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA); FTA giữa ASEAN và Trung Quốc
(ACFTA); FTA giữa ASEAN và Hàn Quốc (AKFTA); FTA giữa ASEAN và Nhật
(AJFTA); FTA giữa ASEAN và Ấn Độ (AIFTA); FTA giữa ASEAN và Úc, Niu
Di-lân (AANZFTA).
Danh mục 6 FTAs đang đàm phán gồm: Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); FTA giữa Việt
Nam và EU (EVFTA); FTA giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan, gồm Nga,
Bê-la-rút, Ca-dắc-xtan (VCUFTA); FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc (VKFTA);
FTA giữa Việt Nam và Khối Thương mại tự do Châu Âu, gồm Thuỵ Sĩ, Na Uy,
Ai-xơ-len, Lích-ten-xtên (VN - EFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện khu vực (RCEP).
[15] Tiếp
tục triển khai xây dựng hệ thống đường bộ cao tốc, tập trung ưu tiên
cho các đoạn đường bộ cao tốc Bắc - Nam, đường bộ cao tốc kết nối các
trung tâm kinh tế lớn. Đầu tư nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có;
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước triển khai xây dựng đường
sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Hoàn thành đầu tư xây dựng các cảng biển cửa
ngõ quốc tế khu vực phía Bắc và phía Nam. Cải tạo, nâng cấp các cảng
hàng không; phân kỳ đầu tư xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Hoàn thành các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh
và các công trình cấp, thoát nước tại các đô thị lớn. Hoàn thành xây
dựng các bệnh viện tuyến cuối.
Nguồn: http://daihoi12.dangcongsan.vn