I. Chặng đường lịch sử, chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trên
thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất
mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới,
từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân
Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào
miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu
dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống
đối đầu gay gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết
liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội (XHCN), phong trào công nhân ở các nước
tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao.
Trong
nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải
phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới
ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu đấu giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.
2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là
cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng và
nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống tên đế quốc giàu mạnh và hung
bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này đã trải qua nhiều giai
đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế quốc
Mỹ.
a.
Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực
lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức
chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Những
chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao
là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ
đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ,
hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ
chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện
biện pháp “tố cộng”, “diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước,
trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền
Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả
miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách
mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng
trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và
dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững
mạnh của cách mạng cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền
Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh
chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958-1960), chúng ta đã hoàn
thành về cơ bản công cuộc cải tạo XHCN, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột,
bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi
lên CNXH, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai
đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt,
nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp
bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương
Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối
quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp
thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên
nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 -
1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ
máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.
b.
Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế
tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Từ
cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược
dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét,
dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại
tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của
nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần
lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và
đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng
chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mỹ và tay sai. Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh
quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi
viện cho miền Nam.
c.
Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân
chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc
Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần
thứ nhất ở miền Bắc.
Trước
nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ
động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để
bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong
vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh
phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên
chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ
ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận
thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta
lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh
thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng
bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn. Quân
dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và
hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông
thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết
định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải
xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị
Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào
giai đoạn mới.
d.
Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến
đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán.
Đế
quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở
rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực
hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp
nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền
Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia
đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai
năm 1970-1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và
dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc
tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng
máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến
tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp
chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết
quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực lượng
thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng
lợi cuối cùng.
e.
Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời
cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975,
kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau
khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ
vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện
chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ
khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân
dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát
triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp
định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xoá bỏ
vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng
7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường
cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn
cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và
dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” đã
giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ
rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo
Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược
giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải
phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền
Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm
1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ
khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn
miền Nam đã đến.
Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba
đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh
chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế -
Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc
vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính
trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Đối với Việt Nam:
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là
thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và
chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc.
Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người
tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do,
thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ
nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết
định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập
tự do, cả nước đi lên CNXH.
- Đối với thế giới:
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là
thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân
tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc
đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở
đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
4. Nguyên nhân thắng lợi
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là, nhân
dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác
Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
Ba là, cả
nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu
người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Năm là, đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.
5. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba:
Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng,
phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến
tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng,
chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thứ tư:
Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách
mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.
Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
II. Thành tựu sau 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
1.
Hoàn thành thống nhất nhất đất nước về mặt Nhà nước. Hội nghị lần thứ
24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 9/1975 đề ra nhiệm vụ hoàn
thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Ngày 25/4/1976 cuộc Tổng
tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trên toàn quốc với hơn 23 triệu
cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu. Quốc hội quyết định lấy tên nước
là Cộng hoà XHCN Việt Nam (từ 2/7/1976). Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng,
Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy là “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam thống nhất. Thành phố Sài Gòn
đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc
hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã tạo nên những điều
kiện chính trị cơ bản để phát huy toàn diện sức mạnh phát triển đất
nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên CNXH, có những khả năng
to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
Từ đó đến nay, nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực
hành dân chủ, phát huy sức sáng tạo của nhân dân, được quán triệt trong
nhiệm vụ xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân,
vì dân. Quốc hội có những bước đổi mới quan trọng, từ khâu bầu cử đại
biểu đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, làm tốt hơn
chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước, tăng cường và lắng nghe ý kiến cử tri. Nâng cao sức chiến đấu,
vai trò, vị trí của Đảng cầm quyền, chú trọng đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức
được tăng cường. Chính phủ có nhiều cải tiến trong phương thức hoạt
động, trong thực hiện cải cách hành chính theo tinh thần phục vụ nhân
dân. Hệ thống chính trị được củng cố, phân định rõ hơn trách nhiệm và
quyền hạn, đảm nhiệm ngày càng toàn diện hơn việc lãnh đạo, quản lý sự
phát triển đất nước.
2.
Kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng, văn hóa - xã hội có bước
tiến bộ rõ nét. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của
nhiều năm chiến tranh, lại bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã vượt lên,
phát triển kinh tế khá nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, tích cực và chủ động hội nhập quốc
tế. Đất nước ta không những đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
phá được thế bao vây cấm vận, vượt qua những tác động tiêu cực của khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới những năm 1997-1998 và cuộc
khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu những năm gần đây mà
vẫn giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Hàng hoá trên thị trường dồi dào, đa
dạng và lưu thông tương đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển
mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức, góp phần quan trọng vào
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mức tăng trưởng GDP bình
quân 6-7%/năm, đặc biệt giai đoạn 1990-2000 đạt 7,5%; giai đoạn
2001-2005 đạt 7,51%, riêng năm 2006 là 8,23% và năm 2007 là 8,48%. Năm
2008, do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng đến
nền kinh tế đất nước, GDP chỉ đạt 6,23%. Trong các năm từ 2009 đến 2014
tăng trưởng GDP lần lượt là 5,32%; 6,78%; 5,89%; 5,03%; 5,4%; 5,98%. Thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được hoàn thiện. Quan
hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, tạo điều kiện phát triển lực lượng
sản xuất. Các loại thị trường từng bước được hình thành và phát triển,
gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới.
Đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Từ năm
2008 chúng ta đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người trên 1.000 đô la,
vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển, trở thành nước đang phát
triển có thu nhập trung bình. Đến năm 2014 thu nhập bình quân đầu người
đã đạt xấp xỉ 2.000 đô la. Tỷ lệ các hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống
còn 8% năm 2014. Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm trung
bình cao của thế giới. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xoá
nạn mù chữ. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tuổi thọ của
người dân ngày càng tăng. Phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và
từng bước mở rộng. Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ,
người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm.
Vấn đề tạo điều kiện ưu đãi về tín dụng, đào tạo nghề, phát triển sản
xuất, xoá đói giảm nghèo cho đối tượng chính sách được quan tâm. Công
tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả tốt; sự
nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hoá về loại
hình trường lớp; khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học - công nghệ có
bước phát triển nhất định; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến
bộ; những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc được kế thừa và phát
triển, giao lưu hợp tác văn hoá với nước ngoài được mở rộng, các tài
năng văn hoá - nghệ thuật được khuyến khích; chính sách phát triển nguồn
nhân lực được chú trọng.
3.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; độc lập chủ quyền quốc gia được
giữ vững; tiềm lực an ninh, quốc phòng ngày càng lớn mạnh. 40 năm qua,
chúng ta đã bảo vệ được thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của nhân
dân vào sự nghiệp đổi mới, nâng cao trình độ hiểu biết về quốc phòng, an
ninh và ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng và phát triển tiềm lực quốc phòng theo hướng chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại và có đóng góp quan trọng vào phát triển kinh
tế - xã hội.
4.
Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, vị thế Việt Nam trên trường quốc
tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng tốt đẹp. Chúng ta đã phá vỡ thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ
đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, giữ vững độc lập chủ
quyền quốc gia, xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn; có quan
hệ ngoại giao với hơn 180 nước, quan hệ kinh tế thương mại với hơn 200
nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế
ASEAN, ASEM, APEC, WTO...; đang đàm phán tham gia TPP; chuẩn bị ký kết
các hiệp ước của EU; tích cực tham gia giải quyết những vấn đề biên
giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan, góp phần giữ vững môi
trường hoà bình khu vực và thế giới.
III. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
1. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu của Đại thắng mùa Xuân 1975,
động viên toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng
đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, như: đấu tranh
trong lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất,
nghiên cứu, học tập, xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, đoàn kết
dân tộc, tương thân tương ái, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc …
2. Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Đại thắng mùa Xuân 1975 để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không
chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng đó của
dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống
nhất Tổ quốc.
3.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là động
lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới. Toàn dân đoàn kết, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, hoàn cảnh, chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường giáo dục giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu
nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; phát huy nội lực của đất nước với sự
giúp đỡ, hợp tác với các nước, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và
ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát
triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
5. Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới: Đảng,
Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng
sự nghiệp của các thế hệ đi trước trong điều kiện mới, tiến quân vào
khoa học và công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ loài người,
nâng tầm văn hóa trong cuộc sống, năng động sáng tạo trong học tập, lao
động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động
văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ
thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc vai trò xung kích trong Tổng
khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến; ngày
nay là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
6.
Phát huy tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại
thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quốc
phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho
việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Không ngừng nâng
cao chất lượng hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo
dục quốc phòng - an ninh, xây dựng ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi công dân nhằm khơi dậy, phát huy
những giá trị truyền thống yêu nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử
mới.
Kỷ
niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chính là dịp
chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng
đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu
sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực
tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Ban Tuyên giáo Trung ương